22 CÂU HỎI TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA MÁC LEENIN (PHẦN 3)

Ngày: 21/07/2020

Các tài liệu như này anh em sẽ không bao giờ có thể tìm thấy ở ngoài cổng trường hay bất kỳ quán photo nào cả.
Trong bài viết này chỉ có 1 phần nhỏ, để xem phần tiếp theo, anh em có thể tham gia group 
"Góc ôn thi NUCE - Thi không qua, xoá group!"

Mã QR group otsv
Group tài liệu và đề thi của đội ngũ OTSV theo từng trường. Quét mã hoặc bấm tại đây
 

 

22 Câu hỏi triết học Chủ nghĩa Mác Lê Nin (phần 1)
22 Câu hỏi triết học Chủ nghĩa Mác Lê Nin (phần 2)

Dưới đây là phần 3 của "22 câu hỏi triết học chủ nghĩa Mác- Lenin" 

Câu 16:  Trình bày các quan niệm khác nhau về bản chất của nhận thức?
Nhận thức là gì? Con người có khả năng nhận thức thế giới được hay không?
Trả lời

Là một mặt của vấn đề cơ bản của triết học mà mọi trào lưu, khuynh hướng triết học khác nhau, đặc biệt là triết học truyền thống phải giải quyết. Khuynh hướng hoài nghi - bất khả tri không chỉ nghi ngờ tính xác thực của tri thức mà còn nghi ngờ cả sự tồn tại của bản thân thế giới bên ngoài, còn nếu giả sử có tồn tại của thế giới bên ngoài thì lý trí của con người cũng không có khả năng nhận thức được nó. Khuynh hướng khả tri dù có thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của (lý trí) con người, nhưng các trào lưu triết học cụ thể lại bất đồng sâu sắc ở quan niệm về bản chất, nguồn gốc, động lực, con đường, cách thức nhận thức, ở quan niệm về bản tính và tiêu chuẩn chân lý… 
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan do xuất phát từ quan điểm coi cảm giác (cái tâm lý) là nền tảng của thế giới (cái vật lý) nên cho rằng nhận thức chỉ là sự tìm hiểu hoạt động cảm giác, là sự thiết lập các mối liên hệ tâm lý xảy ra bên trong con người. 
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan do xuất phát từ quan điểm coi ý niệm tuyệt đối (linh hồn vũ trụ, lý tính thế giới…) là nền tảng của thế giới nên khẳng định nhận thức chỉ là sự hồi tưởng, tái hiện lại ý niệm tuyệt đối tồn tại ở đâu đó bên ngoài con người một cách năng động sáng tạo. 
+ Chủ nghĩa duy vật cũ xuất phát từ quan điểm đúng coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, và khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới, nhưng do bị hạn chế bởi tính siêu hình - máy móc, tính trực quan mà không thấy được tính năng động sáng tạo của quá trình nhận thức, không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức…
+ Khi kế thừa các thành tựu khoa học và tư duy triết học, đồng thời khắc phục những nhược điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ 4 luận điểm: một là, tồn tại thế giới vật chất ở bên ngoài con người và độc lập với cảm giác, tư duy, nhận thức (ý thức) của con người, nó là nguồn gốc, nội dung của mọi nhận thức; hai là, nhận thức là một quá trình biện chứng, năng động sáng tạo; ba là, con người có năng lực nhận thức thế giới, về nguyên tắc, không có cái không thể biết mà chỉ có cái hiện nay chưa biết mà thôi; bốn là, thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức cho rằng, nhận thức là một quá trình phản ánh biện chứng, năng động sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người thông qua hoạt động thực tiễn lịch sử – xã hội. Đó là quá trình: 
- Chủ thể - con người có lợi ích, mục đích, tài năng, ý chí, năng lực… - tái hiện lại khách thể - một bộ phận của thế giới khách quan - dưới dạng các hình ảnh tinh thần. 
- Chủ thể đi từ cái riêng đến cái chung, từ cái ngẫu nhiên đến cái tất nhiên quy luật, từ  hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn nhằm đạt mục tiêu trước mắt là có được những hiểu biết (tri thức) ngày càng đầy đủ, chính xác hơn về thế giới khách quan. 
- Xảy ra dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử – xã hội và quay về phục vụ thực tiễn lịch sử - xã hội. 

Câu 17:  Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
Trả lời

1. Thực tiễn là gì?

+ Trước C.Mác, một số nhà triết học duy tâm, đặc biệt là Ph.Hêghen, đã tiếp cận được phạm trù thực tiễn, đã phát hiện ra bản tính năng động sáng tạo của nó và đề cao nó, nhưng họ mới hiểu thực tiễn như là một dạng hoạt động sáng tạo của cái tinh thần mà không thấy được nó là một hoạt động hiện thực, vật chất, cảm tính của con người… Trong khi đó, các nhà triết học duy vật, kể cả L.Phoiơbắc, hiểu được tính vật chất của thực tiễn nhưng lại coi thực tiễn chỉ là hoạt động vật chất tầm thường mang tính bản năng của con người… Vì vậy, lý luận nhận thức của họ còn mắc nhiều hạn chế, trong đó hạn chế lớn nhất là không hiểu đúng thực tiễn, không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. 

+ Khi kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót của các nhà triết học tiền bối, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng đã mang lại một cách hiểu duy vật và khoa học về thực tiễn, vạch ra vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Việc xây dựng và đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận là một bước ngoặt mang tính cách mạng của lý luận nói chung, lý luận nhận thức nói riêng. Vì vậy, V.I.Lênin mới nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” a) Định nghĩa 

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Nếu hoạt động bản năng của loài vật giúp nó nó thích nghi với môi trường, thì hoạt động thực tiễn của con người hướng đến cải tạo thế giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình và vươn lên nắm giữ vai trò làm chủ thế giới. Nếu loài vật chỉ sống bằng cách tự thoả mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn, thì con người muốn tồn tại phải lao động tạo ra của cải vật chất để tự nuôi sống mình. Để lao động có hiệu quả, con người phải chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn lao động, con người đã tạo nên những vật phẩm không có sẵn trong tự nhiên nhưng cần thiết cho mình. Và thông qua lao động, con người có quan hệ ràng buộc với nhau tạo nên cộng đồng xã hội. Nhờ vào thực tiễn, con người đã tách ra khỏi thế giới tự nhiên, tôn vinh mình trong vũ trụ, và cũng nhờ vào thực tiễn, con người quay về sống hòa hợp với thế giới xung quanh, để qua đó con người và xã hội loài người tồn tại và phát triển. Như vậy, thực tiễn là phương thức tồn tại của con người và xã hội loài người, là hoạt động cơ bản, tất yếu, phổ biến, mang tính bản chất của con người, nói ngắn gọn, thực tiễn là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

b) Các hình thức cơ bản 

Thực tiễn được tiến hành trong các quan hệ xã hội, và luôn thay đổi cùng với quá trình phát triển của xã hội. Trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự nhiên và làm chủ xã hội của con người. Bất cứ hình thức hoạt động nào của thực tiễn cũng gồm những yếu tố chủ quan như nhu cầu, mục đích, lợi ích, năng lực, trình độ của con người đang hoạt động thực tiễn và những yếu tố khách quan như phương tiện, công cụ, điều kiện vật chất (hay tinh thần đã được vật chất hóa) do thế hệ trước để lại và điều kiện tự nhiên xung quanh. Thực tiễn có thể được chia ra thành các hình thức cơ bản như thực tiễn sản xuất vật chất, thực tiễn chính trị – xã hội thực tiễn thực nghiệm khoa học, và các hình thức không cơ bản như thực tiễn tôn giáo, thực tiễn đạo đức, thực tiễn pháp luật… 

+ Thực tiễn sản xuất vật chất là hình thức hoạt động nguyên thủy nhất, cơ bản nhất; bởi vì nó quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là cơ sở không chỉ quy định các hình thức hoạt động thực tiễn khác mà còn quy định mọi hình thức hoạt động sống của con người, nó không chỉ cải biến tự nhiên mà còn cải tạo luôn cả bản thân con người. 
+ Thực tiễn chính trị – xã hội là hình thức hoạt cao nhất, quan trọng nhất; bởi vì nó làm biến đổi các quan hệ xã hội, tác động đến sự thay đổi của các chế độ xã hội loài người. 
+ Thực tiễn thực nghiệm khoa học gắn liền với sự ra đời và phát triển của khoa học và của các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nó ngày càng trở nên quan trọng; bởi vì nó thúc đẩy mạnh mẽ các hình thức hoạt động thực tiễn khác…

2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức 
a) Thực tiễn là nguồn gốc, là động lực của nhận thức

Một mặt, con người có quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, quy luật của mình để cho con người nhận thức. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính; sau đó, tiến hành những thao tác lý tính như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa… để phản ánh những quy luật, bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Như vậy, thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức (lý luận), mọi tri thức dù hình thành ở trình độ, giai đoạn nào, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực tiễn. 
Mặt khác, cũng bằng hoạt động thực tiễn, con người biến đổi thế giới và biến đổi bản thân mình. Trong quá trình đó, con người không ngừng nâng cao năng lực và trình độ nhận thức của mình để đào sâu và mở rộng nhận thức, khám phá ra các bí mật của thế giới nhằm giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra. Để hoạt động thực tiễn hiệu quả, cần phải có tri thức chính xác hơn. Muốn vậy, phải tổng kết, khái quát kinh nghiệm, xây dựng lý luận, nghĩa là, thực tiễn thúc đẩy sự ra đời và phát triển mạnh mẽ các ngành khoa học. Như vậy, thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, nghĩa là luôn thúc đẩy nhận thức phát triển.

b) Thực tiễn là mục đích của nhận thức 

Nhận thức (lý luận, khoa học) chỉ có ý nghĩa thật sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn nhằm giải quyết các nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra, giúp cải tạo thế giới hiệu quả. Vì vậy, mọi kết quả của nhận thức luôn thực hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp thực tiễn nâng cao năng lực cải tạo của chính mình.    

Câu 18: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa các giai đoạn, cấp độ của quá trình nhận thức? 
Trả lời

Nhận thức là một quá trình biện chứng bao gồm nhiều giai đoạn, cấp độ đối lập nhưng thống nhất lẫn nhau.

1. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
a) Nhận thức cảm tính

Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn thấp (ban đầu) của quá trình nhận thức. Nó phản ánh một cách trực tiếp, cụ thể, sinh động, hời hợt những đặc điểm, tính chất bề ngoài của sự vật vào trong bộ óc con người, và được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
- Cảm giác là hình thức trực quan sinh động phản ánh từng đặc điểm, tính chất riêng lẻ, bề ngoài của sự vật khi sự vật tác động lên từng giác quan của chúng ta. Cảm giác là kết quả của sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố đầu tiên của ý thức bên trong bộ óc con người. Nó là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan, là nguồn gốc của mọi hiểu biết.
- Tri giác là hình thức trực quan sinh động được hình thành nhờ vào sự tổng hợp nhiều cảm giác về sự vật khi sự vật tác động lên nhiều cơ quan cảm giác. Vì vậy, tri giác mang lại hiểu biết đầy đủ hơn về sự vật và có sự can dự ban đầu của tư duy (lý tính). 
- Biểu tượng là những hình ảnh trực quan sinh động (ấn tượng) được giữ lại trong trí nhớ (ký ức) do một nguyên do nào đó xuất hiện một cách rời rạt hay dưới dạng kết hợp trong ý thức mà không có sự tác động trực tiếp của sự vật lên giác quan của chúng ta. Biểu tượng chỉ bao gồm những nét chủ yếu, nổi bật nhất mà cảm giác mang lại trước đó. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng. Do có tính chủ động, sáng tạo mà sự tưởng tượng có vai trò to lớn trong hoạt động khoa học và nghệ thuật. Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất trực tiếp và cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, nhưng nó đã bắt đầu mang tính chất gián tiếp và trừu tượng, khái quát của nhận thức lý tính. Nó là khâu trung gian giữa hai giai đoạn nhận thức này. 

b) Nhận thức lý tính

Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, được nảy sinh từ nhận thức cảm tính. Nó phản ánh một cách gián tiếp, trừu tượng, khái quát, sâu sắc những đặc điểm, tính chất, quan hệ bên trong của sự vật vào trong bộ óc con người và được biểu đạt bằng ngôn ngữ. Nhận thức lý tính mang tính năng động, sáng tạo được tiến hành thông qua các phương pháp so sánh - đối chiếu, trừu tượng hóa - khái quát hóa, phân tích - tổng hợp…, và được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy luận.
- Khái niệm là hình thức tư duy phản ánh những tính chất, quan hệ (dấu hiệu) bản chất của đối tượng được suy nghĩ. Khái niệm là vật liệu chính tạo thành tư tưởng, là phương tiện chủ yếu để tích lũy, vận hành, trao đổi những thông tin, tri thức của con người. Khái niệm có nội hàm (tất cả các dấu hiệu bản chất của đối tượng) và ngoại diên (tất cả các phần tử mà đối tượng bao quát) biến động cùng với quá trình đào sâu và mở rộng của hoạt động thực tiễn - nhận thức nhân loại. Khái niệm là yếu tố quan trọng của tư duy khoa học. Hình thức ngôn ngữ biểu đạt khái niệm là từ (thuật ngữ). 
- Phán đoán là hình thức tư duy phản ánh những tính chất, quan hệ của đối tượng được suy nghĩ dưới hình thức khẳng định hay phủ định và có một giá trị lôgích xác định (là đúng hay sai). Phán đoán là hình thức liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau của các khái niệm, là sự biểu hiện của tư tưởng. Hình thức ngôn ngữ biểu đạt phán đoán là câu (mệnh đề). 
- Suy luận là hình thức tư duy cho phép dựa vào một số phán đoán làm tiền đề rút ra một phán đoán mới làm kết luận. Suy luận là hình thức liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau của các phán đoán, là công cụ tư duy dùng để đào sâu và xây dựng tri thức gián tiếp. Nhờ suy luận mà khoa học không ngừng phát triển, nhận thức của con người ngày càng đầy đủ, tinh xác, sâu sắc hơn. Suy luận có ba hình thức cơ bản là diễn dịch, quy nạp và loại suy. Trong quá trình suy luận, nếu chúng ta dựa trên các tiền đề xác thực (đúng) và tuân thủ mọi quy tắc lôgích có liên quan thì kết luận được rút ra bao giờ cũng đúng. Hình thức ngôn ngữ biểu đạt suy luận là đoạn (lập luận).

c) Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Khi khắc phục tính phiến diện của chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò nhận thức cảm tính, hạ thấp vai trò nhận thức lý tính) và của chủ nghĩa duy lý (đề cao vai trò nhận thức lý tính, hạ thấp vai trò nhận thức cảm tính) chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn nhận thức đối lập nhau có đặc điểm, vai trò khác nhau, nhưng liên hệ mật thiết và hỗ trợ, thống nhất lẫn nhau: Nhận thức cảm tính là cơ sở, tiền đề của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính giúp định hướng và nâng cao độ chính xác của nhận thức cảm tính. 
Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở cảm tính thì không thể khám phá được bản chất, quy luật của đối tượng, còn nếu nhận thức chỉ xảy ra trong lĩnh vực lý tính thì có thể sa vào chủ nghĩa giáo điều, ảo tưởng viển vông; trong thực tế, chúng đan xen thống nhất lẫn nhau. Một trong những hình thức thể hiện sự đan xen, thống nhất đó là trực giác - năng lực trực tiếp nắm bắt chân lý mà không cần trải qua những lập luận lôgích . Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi trực giác là một hình thức nhận thức có tính bỗng nhiên (bất ngờ), trực tiếp và không ý thức được . 
• Nắm vững quan điểm thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính sẽ giúp khắc phục chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý, giúp loại bỏ chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều để đẩy mạnh hoạt động thực tiễn hiệu quả và nhận thức  đúng đắn.

2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
a) Nhận thức kinh nghiệm

Nhận thức kinh nghiệm là cấp độ thấp của quá trình nhận thức lý tính, được nảy sinh trực tiếp từ thực tiễn (lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, thực nghiệm khoa học…) và mang lại tri thức kinh nghiệm. 
Tri thức kinh nghiệm bị giới hạn ở lĩnh vực sự kiện và chủ yếu dừng lại trong việc miêu tả, so sánh, đối chiếu, phân loại sự kiện thu được nhờ quan sát và thí nghiệm. Là kết quả giao thoa giữa cảm tính và lý tính nên tri thức kinh nghiệm vừa cụ thể, sinh động, vừa trừu tượng, khái quát. Vì vậy, nó vừa có vai trò to lớn trong việc hướng dẫn sinh hoạt hằng ngày của con người, vừa là chất liệu ban đầu làm nảy sinh, phát triển lý luận khoa học. Kinh nghiệm là cơ sở không chỉ để kiểm tra, sửa đổi, bổ sung lý luận đã có mà còn để tổng kết, khái quát xây dựng lý luận mới. Có hai loại tri thức kinh nghiệm đan xen vào nhau trong quá trình phát triển nhận thức xã hội là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. 

b) Nhận thức lý luận

Nhận thức lý luận là cấp độ cao của quá trình nhận thức lý tính. Mặc dù, lý luận nảy sinh từ trong quá trình tổng kết, khái quát kinh nghiệm, nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và cũng không phải mọi lý luận đều xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối mà lý luận có thể xuất hiện trước dữ kiện kinh nghiệm. 
Nhận thức lý luận mang lại tri thức lý luận có tính gián tiếp, tính trừu tượng, khái quát cao cho phép hiểu được cái chung, tất yếu, quy luật, bản chất sâu sắc, bên trong của đối tượng. Tri thức lý luận có độ chính xác cao hơn và phạm vi bao quát rộng hơn tri thức kinh nghiệm. Khi lý luận xâm nhập vào quần chúng, tức được vật chất hóa, thì nó biến thành sức mạnh vật chất. Vì vậy, lý luận có vai trò to lớn - “kim chỉ nam” trong việc chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người; “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. Tuy nhiên, lý luận cũng có thể xa rời thực tiễn, cuộc sống; khi đó nó trở thành ảo tưởng. Khả năng này càng lớn nếu nó là lý luận không khoa học và được bảo vệ bởi những lực lượng vật chất phản động. 

c) Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận 

Nếu chủ nghĩa kinh nghiệm đề cao vai trò nhận thức kinh nghiệm, hạ thấp vai trò nhận thức lý lý luận, còn chủ nghĩa duy lý đề cao vai trò nhận thức lý luận, hạ thấp vai trò nhận thức kinh nghiệm, thì chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ nhận thức đối lập nhau nhưng có liên hệ biện chứng, thống nhất với nhau. Dù tri thức kinh nghiệm là cụ thể, sinh động, đầy tính thuyết phục, nhưng nó chỉ mang lại những hiểu biết về từng mặt, từng quan hệ riêng rẽ, rời rạt, bề ngoài; vì vậy, cần phải khắc phục nó (phủ định biện chứng) bằng cách xây dựng tri thức lý luận để có thể hiểu được cái tất yếu, quy luật, bản chất sâu sắc, bên trong của đối tượng. 
• Khi nắm vững sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận sẽ giúp xây dựng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để đẩy mạnh hoạt động nhận thức khoa học đúng đắn và hoạt động thực tiễn cách mạng hiệu quả. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa quan điểm thực tiễn, nó yêu cầu phải coi trọng cả kinh nghiệm thực tiễn lẫn  lý luận, và biết gắn liền lý luận với thực tiễn. 
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không cho phép tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm mà sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, đặc biệt là chủ nghĩa kinh nghiệm giáo điều, nhưng cũng không cho phép cường điệu vai trò của lý luận mà sa vào chủ nghĩa giáo điều. Nó chỉ ra rằng, thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, còn lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. 

3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
a) Nhận thức thông thường 

Nhận thức thông thường là cấp độ thấp nhất trong quá trình nhận thức. Nó phản ánh một cách sinh động tính muôn vẻ của môi trường tự nhiên – xã hội và quan hệ của con người với môi trường đó. 
Nhận thức thông thường được hình thành một cách trực tiếp, tự phát từ trong cuộc sống lao động hàng ngày của con người và chi phối một cách thường xuyên mạnh mẽ hành vi hoạt động của con người, đồng thời, nó mang lại những vật liệu cần thiết cho sự hình thành nhận thức nghệ thuật, khoa học, triết học cũng như thế giới quan của con người. Nhận thức thông thường biến đổi nhanh chóng cùng với quá trình biến đổi của thực tiễn lịch sử – xã hội và mang tính giá trị rõ rệt đối với quá trình sống còn của con người. Bởi vì trong nó có cả những yếu tố tình cảm lẫn lý trí, sự thật lẫn hoang đường, tôn giáo lẫn khoa học. 

b) Nhận thức khoa học 

Nhận thức khoa học là cấp cao nhất trong quá trình nhận thức, được hình thành một cách tự giác. Tính trừu tượng, tính khái quát, tính gián tiếp, tính năng động sáng tạo của nó ngày càng cao và ngày càng phản ánh những kết cấu, thuộc tính, quy luật sâu sắc, bên trong của hiện thực khách quan dưới dạng các hệ thống lôgích chặt chẽ, nhất quán. 
Nhận thức khoa học là thành quả vĩ đại nhất của trí tuệ con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Nó ngày càng chi phối mạnh mẽ hành vi hoạt động của con người và thâm nhập sâu vào mọi hình thái ý thức xã hội với tính cách là nội dung khoa học của các hình thái ý thức xã hội này. 
Nhận thức khoa học mang tính khách quan hướng đến việc nghiên cứu khách thể vận động, phát triển theo quy luật khách quan. Do dựa trên sự thật kinh nghiệm và lý trí, nên nhận thức khoa học đối lập với lòng tin, tín ngưỡng hoang đường của tôn giáo. Nhận thức khoa học mang lại tri thức khách quan, có hệ thống và có căn cứ - chân lý. Tính chân lý của nhận thức khoa học được chứng minh không chỉ dựa vào sự áp dụng chúng vào thực tiễn, mà bản thân khoa học còn tạo ra các phương thức chứng minh, các tiêu chuẩn chân lý riêng khác (tính phi mâu thuẫn lôgích) để kiểm tra tính chân lý của tri thức do mình mang lại. Khoa học phản ánh hiện thực khách quan dưới dạng một hệ thống các cái trừu tượng - các khái niệm, phạm trù, quy luật, có liên hệ lôgích chặt chẽ, nhất quán với nhau và được diễn đạt thông qua hệ thống ngôn ngữ khoa học mang tính chuyên môn hóa. Nhận thức khoa học luôn đòi hỏi một hệ thống các phương tiện, phương pháp nghiên cứu chuyên môn hóa và những nhà khoa học có tài năng, phẩm chất đạo đức cao. Khoa học ngày càng gắn liền với thực tiễn, đồng thời chịu sự chi phối trực tiếp và mạnh mẽ từ thực tiễn. Khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tốc độ phát triển hiện nay của xã hội phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của khoa học.

c) Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học

Dù bản thân nhận thức thông thường là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học, nhưng nó không thể tự phát triển thành nhận thức khoa học. Khoa học chỉ xuất hiện thật sự khi có những nhà khoa học, những chuyên gia lý luận có năng lực khái quát, tổng kết, mở rộng, đào sâu tri thức thông thường. Ngược lại, sự phát triển khoa học hướng đến giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ do thực tiễn, cuộc sống đặt ra làm cho nhận thức khoa học thâm nhập vào nhận thức thông thường mà kết quả là làm tăng hàm lượng khoa học cho nhận thức nói chung, thúc đẩy sự phát triển của nhận thức thông thường nói riêng. 
• Quán triệt sự thống nhất giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta phải: Coi trọng khoa học và công nghệ; Đưa khoa học và công nghệ vào đời sống; Đẩy mạnh quá trình vật chất hóa tri thức khoa học tiên tiến, quần chúng hóa quan điểm khoa học cách mạng, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. Điều này không chỉ góp phần khắc phục sự lạc hậu nghèo nàn mà loại bỏ những thói quen tập quán cổ hủ, những quan niệm duy tâm thần bí, những đầu óc mê tín dị đoan đang chi phối suy nghĩ và hành động của đông đảo quần chúng nhân dân ngăn cản bước tiến của xã hội. 

Câu 19:  Chân lý là gì? Các đặc tính cơ bản và tiêu chuẩn của chân lý? 
Trả lời

1. Chân lý là gì? 

Sản phẩm của quá trình nhận thức mà trước hết là nhận thức khoa học là tri thức. Còn mục đích trước mắt mà khoa học phải đạt được là chân lý. Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh, đồng thời được thực tiễn kiểm nghiệm. 

2. Các đặc tính cơ bản của chân lý

Do bản thân khách thể nhận thức luôn tồn tại một cách cụ thể và không ngừng vận động, phát triển nên chân lý – hình ảnh chủ quan phù hợp với khách thể khách quan cũng phải mang tính khách quan, tính cụ thể và tính quá trình (tính tương đối và tính tuyệt đối).
+ Tính khách quan là tính chất cơ bản của chân lý, vì vậy mọi chân lý còn được gọi là chân lý khách quan. Tính khách quan của chân lý thể hiện ở chỗ nội dung của nó không phụ thuộc vào con người và loài người, mà chỉ phụ thuộc vào khách thể mà nó phản ánh. Thừa nhận chân lý khách quan cũng có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và sự phản ánh thế giới vào trong bộ óc con người, nghĩa là thừa nhận chủ nghĩa duy vật, cho dù hình thức tồn tại của chân lý là chủ quan.
+ Tính cụ thể cũng là tính chất cơ bản của chân lý, vì vậy mọi chân lý còn được gọi là chân lý cụ thể. Tính cụ thể của chân lý thể hiện ở chỗ khách thể mà chân lý phản ánh bao giờ cũng thuộc về một lĩnh vực cụ thể, đang tồn tại trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, vì vậy chân lý phải phản ánh những điều kiện, quan hệ cụ thể đó của khách thể vào trong nội dung của chính mình. Vượt qua điều kiện lịch sử – cụ thể, chân lý sẽ không còn là chân lý nữa. Tính cụ thể của chân lý và quan điểm lịch sử – cụ thể có liên hệ mật thiết lẫn nhau. Đó là “linh hồn sống động” của triết học Mác. 
+ Tính quá trình (tính tương đối và tính tuyệt đối) cũng là tính chất cơ bản của chân lý, vì vậy mọi chân lý đều là những quá trình. Tính quá trình của chân lý thể hiện ở mối liên hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối; nó phản ánh tính vô tận của quá trình nhận thức của con người. Chân lý tương đối là tri thức phản ánh đúng hiện thực khách quan (khách thể) nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải điều chỉnh, bổ sung trong quá trình phát triển tiếp theo. Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan. 
Thừa nhận chân lý cụ thể, chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối cũng có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách thể trong mối liên hệ với mọi khách thể khác và trong sự vận động, phát triển của bản thân khách thể, cũng như của sự phản ánh nó vào trong bộ óc con người, nghĩa là thừa nhận phép biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, “tư duy con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối” . Do bản tính khách quan mà trong mỗi chân lý tương đối vẫn chứa một yếu tố nào đó của chân lý tuyệt đối. Sở dĩ như vậy là vì thế giới khách quan là vô cùng tận, nó biến đổi, phát triển không ngừng, không có giới hạn tận cùng, trong khi đó, nhận thức của từng con người, của từng thế hệ lại luôn bị hạn chế bởi điều kiện khách quan và năng lực chủ quan.
• Quán triệt sự thống nhất biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Nó phê phán và khắc phục những thái độ cực đoan trong hành động thực tiễn và sai lầm trong nhận thức khoa học. Bởi vì, nếu cường điệu chân lý tuyệt đối, hạ thấp chân lý tương đối sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, đầu óc bảo thủ trì trệ; còn ngược lại, nếu cường điệu chân lý tương đối, hạ thấp chân lý tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối và từ đó đi đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa hoài nghi và thuyết bất khả tri.

3. Tiêu chuẩn của chân lý

Dù các hình thức nhận thức khác nhau có thể có tiêu chuẩn riêng, nhưng không có tiêu chuẩn nào thay thế tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, chúng cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Vì vậy, C.Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý…” . 
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý phải được hiểu một cách biện chứng, bởi vì nó vừa mang tính tương đối vừa mang tính tuyệt đối. Tính tuyệt đối nói lên tính khách quan của tiêu chuẩn thực tiễn trong việc xác định chân lý, khi thực tiễn được xác định ở một giai đoạn phát triển nhất định. Tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ thực tiễn không chỉ mang yếu tố khách quan mà còn bao hàm cả yếu tố chủ quan, và bản thân nó là một quá trình luôn vận động, biến đổi và phát triển. Những yếu tố chủ quan sẽ được khắc phục, tính xác định của thực tiễn ở giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ khác đi. Vì vậy, tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức mà con người nhận thức được ở một giai đoạn hoạt động thực tiễn nhất định thành chân lý tuyệt đích bất di bất dịch, mà là đòi hỏi phải tiếp tục kiểm nghiệm chúng ở mọi giai đoạn nhận thức tiếp theo của con người. 
Quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn chân lý – thực tiễn sẽ giúp chúng ta xây dựng quan điểm thực tiễn. Quan điểm này đòi hỏi: 
Việc nhận thức của chúng ta dù ở bất cứ giai đoạn, trình độ nào đều phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng việc tổng kết thực tiễn; Học đi đôi với hành; Lý luận phải gắn liền với thực tiễn.
Xa rời quan điểm thực tiễn sẽ dẫn đến chủ nghĩa giáo điều, quan liêu, bảo thủ, sẽ sa vào chủ nghĩa tương đối, quan điểm chủ quan, duy ý chí.

 Câu 36:  Phương pháp là gì? Hãy trình bày các phương pháp nhận thức khoa học.
Trả lời

1. Phương pháp là gì? 

a) Định nghĩa:

Phương pháp là hệ thống các yêu cầu đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự nhằm đạt được mục đích đặt ra một cách tối ưu. Trong đời thường, phương pháp được hiểu là cách thức, thủ đoạn được chủ thể sử dụng nhằm đạt mục đích nhất định. 

b) Nguồn gốc, chức năng:

Quan niệm duy vật duy vật biện chứng không chỉ coi phương pháp có nguồn gốc khách quan, được xây dựng từ những hiểu biết về thuộc tính và quy luật tồn tại trong thế giới mà còn chỉ rõ vai trò rất quan trọng của nó trong hoạt động của con người . Phương pháp là đối tượng nghiên cứu của phương pháp luận. Tư duy khoa học luôn hướng đến việc xây dựng và vận dụng các phương pháp như công cụ tinh thần để nhận thực và cải tạo hiệu quả thế giới. Muốn chinh phục thế giới không thể không xây dựng và vận dụng hiệu quả các phương pháp thích ứng cho từng lĩnh vực hoạt động của con người.

c) Phân loại:

Phương pháp khác nhau không chỉ về nội dung yêu cầu mà còn khác nhau về phạm vi và lĩnh vực áp dụng. 
• Dựa trên phạm vi áp dụng phương pháp được chia thành: Phương pháp riêng - phương pháp áp dụng cho từng ngành khoa học; Phương pháp chung - phương pháp áp dụng cho nhiều ngành khoa học; Phương pháp phổ biến - phương pháp áp dụng cho mọi ngành khoa học, cho toàn bộ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Các phương pháp phổ biến chính là các quan điểm, nguyên tắc của triết học, mà trước hết là của phép biện chứng - phương pháp biện chứng. Các phương pháp biện chứng được xây dựng từ nội dung tri thức chứa trong các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật, và chúng tác động trong sự hỗ trợ lẫn nhau. 
• Dựa trên lĩnh vực áp dụng, phương pháp được chia thành: Phương pháp hoạt động thực tiễn - phương pháp áp dụng trong lĩnh vực hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người (bao gồm các loại phương pháp cơ bản như phương pháp hoạt động lao động sản xuất và phương pháp hoạt động chính trị – xã hội); Phương pháp nhận thức khoa học - phương pháp áp dụng trong quá trình nghiên cứu khoa học. Có nhiều phương pháp nhận thức khoa học khác nhau có quan hệ biện chứng với nhau. Trong hệ thống các phương pháp nhận thức khoa học, mỗi phương pháp đều có vị trí nhất định, áp dụng hiệu quả cho mỗi loại đối tượng nghiên cứu nhất định; vì vậy không được coi các phương pháp có vai trò như nhau hay cường điệu phương pháp này hạ thấp phương pháp kia, mà phải biết sử dụng tổng hợp các phương pháp. 

 2. Các phương pháp nhận thức khoa học

Phương pháp nhận thức khoa học bao gồm các phương pháp nhận thức khoa học ở trình độ kinh nghiệm và các phương pháp nhận thức khoa học ở trình độ lý thuyết.

a) Các phương pháp nhận thức khoa học ở trình độ kinh nghiệm

Để xây dựng, khẳng định hay bác bỏ một giả thuyết khoa học; để củng cố, hoàn chỉnh các lý thuyết khoa học cần phải tiến hành phương pháp quan sát khoa học, phương pháp thí nghiệm khoa học. 
+ Quan sát khoa học: Quan sát khoa học là phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm thông qua tri giác có chủ đích (theo chương trình lập sẵn) của chủ thể (nhà khoa học) để xác định các sự kiện (thuộc tính, quan hệ) của khách thể (sự vật, hiện tượng) riêng lẻ trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó. Để hỗ trợ cho các giác quan, để nâng cao độ chính xác và tính khách quan của kết quả quan sát, các nhà khoa học thường sử dụng các phương tiện, công cụ ngày càng tinh vi, nhanh nhạy.
+ Thí nghiệm khoa học: Thí nghiệm khoa học là phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm thông qua tri giác có chủ đích (theo chương trình lập sẵn) của chủ thể (nhà khoa học) để xác định các sự kiện (thuộc tính, quan hệ) của khách thể (sự vật, hiện tượng) riêng lẻ trong điều kiện nhân tạo, nghĩa là có sử dụng các phương tiện vật chất để can thiệp vào trạng thái tự nhiên của khách thể, để buộc nó bộc lộ ra những thuộc tính, quan hệ cần khảo sát dưới dạng “thuần khiết”. 
Nhờ vào thí nghiệm khoa học, người ta khám phá ra những thuộc tính, quan hệ của khách thể mà trong điều kiện tự nhiên không thể phát hiện ra được. Thí nghiệm khoa học bao giờ cũng dựa trên một ý tưởng, một giả thuyết hay một lý thuyết khoa học nhất định, và được tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi từ khâu lựa chọn thí nghiệm, lập kế hoạch, tiến hành, thu nhận và lý giải kết quả thí nghiệm. Thí nghiệm khoa học là kiểu hoạt động cơ bản của thực tiễn khoa học. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc chỉnh lý làm chính xác hóa, khẳng định hay bác bỏ một giả thuyết hay một lý thuyết khoa học nào đó. Nó là cơ sở, động lực của nhận thức khoa học và là tiêu chuẩn để kiểm tra tính chân lý của tri thức khoa học.

b) Các phương pháp nhận thức khoa học ở trình độ lý thuyết

+ Phương pháp thống nhất giữa phân tích và tổng hợp

Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu nhận thức các bộ phận đó. Còn tổng hợp là phương pháp thống nhất các bộ phận đã được phân tích nhằm nhận thức cái toàn bộ. 
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với nhau giúp tìm hiểu đối tượng như một chỉnh thể toàn vẹn. Sự thống nhất của phân tích và tổng hợp không chỉ là điều kiện tất yếu của sự trừu tượng hóa và khái quát hóa mà còn là một yếu tố quan trọng của phương pháp biện chứng. Không có phân tích thì không hiểu được những cái bộ phận cấu thành cái toàn bộ, và ngược lại, không có tổng hợp thì không hiểu cái toàn bộ như một chỉnh thể được tạo thành như thế nào từ những cái bộ phận nào. Vì vậy, muốn hiểu thực chất của đối tượng mà chỉ có phân tích hoặc chỉ có tổng hợp không thôi thì chưa đủ mà phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng của mình.   
+ Phương pháp thống nhất giữa quy nạp và diễn dịch
Quy nạp là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa đựng tri thức riêng đến kết luận chứa đựng tri thức chung. Còn diễn dịch là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa đựng tri thức chung đến kết luận chứa đựng tri thức riêng. Quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với nhau giúp phát hiện ra những tri thức mới về đối tượng. 
Sự đối lập của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp được dùng để khái quát các tài liệu quan sát, thí nghiệm nhằm xây dựng các giả thuyết, nguyên lý, định luật tổng quát của khoa học, vì vậy quy nạp, đặc biệt là quy nạp khoa học, có giá trị lớn trong khoa học thực nghiệm. Diễn dịch được dùng để cụ thể hóa các giả thuyết, nguyên lý, định luật tổng quát của khoa học trong các điều kiện tình hình cụ thể, vì vậy diễn dịch, đặc biệt là phương pháp giả thuyết – diễn dịch, phương pháp tiên đề, có giá trị lớn trong khoa học lý thuyết. 
Sự thống nhất của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp xây dựng tiền đề cho diễn dịch, còn diễn dịch bổ sung thêm tiền đề cho quy nạp để thêm chắc chắn. Sự thống nhất của quy nạp và diễn dịch là một yếu tố quan trọng của phương pháp biện chứng. Không có quy nạp thì không hiểu được cái chung tồn tại trong cái riêng như thế nào, và ngược lại, không có diễn dịch thì không hiểu cái riêng có liên hệ với cái chung ra sau. Vì vậy, muốn hiểu thực chất của đối tượng mà chỉ có quy nạp hoặc chỉ có diễn dịch không thôi thì chưa đủ mà phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế của riêng mình.   
+ Phương pháp thống nhất lịch sử và lôgích 
Lịch sử là phạm trù dùng để chỉ quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của sự vật trong tính đa dạng, sinh động của nó. Còn lôgích là phạm trù dùng để chỉ tính tất yếu - quy luật của sự vật (lôgích khách quan) hay mối liên hệ tất yếu giữa các tư tưởng (lôgích chủ quan) . Phương pháp lịch sử là phương pháp đòi hỏi phải tái hiện lại trong tư duy quá trình lịch sử – cụ thể với những chi tiết của nó, nghĩa là phải nắm lấy sự vận động, phát triển lịch sử của sự vật trong toàn bộ tính phong phú của nó. Phương pháp lôgích là phương pháp đòi hỏi phải vạch ra bản chất, tính tất nhiên – quy luật của quá trình vận động, phát triển của sự vật dưới hình thức trừu tượng và khái quát của nó, nghĩa là phải loại bỏ cái ngẫu nhiên, vụn vặt ra khỏi tiến trình nhận thức sự vận động, phát triển của sự vật . 
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích là hai phương pháp nghiên cứu đối lập nhau nhưng thống nhất biện chứng với nhau giúp xây dựng hình ảnh cụ thể và sâu sắc về sự vật. Bởi vì, muốn hiểu bản chất và quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó, đồng thời có nắm được bản chất và quy luật của sự vật thì mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Khi nghiên cứu cái lịch sử, phương pháp lịch sử cũng phải nắm lấy “sợi dây” lôgích của nó để thông qua đó mà phân tích các sự kiện, biến cố lịch sử. Còn khi tìm hiểu bản chất, quy luật, phương pháp lôgích cũng không thể không dựa vào các tài liệu lịch sử để uốn nắn, chỉnh lý chúng. Tuy nhiên, tuỳ theo đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu mà nhà khoa học có thể sử dụng phương pháp nào là chủ yếu. Song, dù trường hợp nào cũng phải quán triệt nguyên tắc thống nhất lôgích và lịch sử và khắc phục chủ nghĩa chủ quan tư biện, cũng như chủ nghĩa kinh nghiệm mù quáng.
+ Phương pháp thống nhất giữa trừu tượng và cụ thể (phương pháp đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể trong tư duy) 
Cái cụ thể là phạm trù dùng để chỉ sự tồn tại trong tính đa dạng . Cái trừu tượng là phạm trù dùng để chỉ kết quả của sự trừu tượng hóa tách một mặt, một mối liên hệ nào đó ra khỏi cái tổng thể phong phú đa dạng của sự vật. Vì vậy, cái trừu tượng là một bộ phận, một mặt của cái cụ thể, là một bậc thang trong quá trình xem xét cái cụ thể (khách quan). Từ những cái trừu tượng tư duy tổng hợp lại thành cái cụ thể (trong tư duy). 
Nhận thức khoa học là sự thống nhất của hai quá trình nhận thức đối lập: Từ cụ thể (cảm tính) đến trừu tượng và Từ trừu tượng đến cụ thể (trong tư duy). Từ cụ thể (cảm tính) đến trừu tượng là phương pháp đòi hỏi phải xuất phát từ những tài liệu cảm tính thông qua phân tích xây dựng các khái niệm đơn giản, những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật. Từ trừu tượng đến cụ thể (trong tư duy) là phương pháp đòi hỏi phải xuất phát từ những khái niệm đơn giản, những định nghĩa trừu tượng thông qua tổng hợp biện chứng đi đến cái cụ thể (trong tư duy) .

Câu 20:   Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người?
Trả lời

1. Sản xuất vật chất 

Sự khác biệt cơ bản giữa loài người và loài vật chính là ở chỗ: loài vật chỉ có thể thoả mãn nhu cầu của nó bằng những cái có sẵn trong tự nhiên, còn con người muốn thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình thì phải sản xuất ra những vật phẩm. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với loài vật là ở chỗ; loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất”(1). Sản xuất là hoạt động riêng có của con người và xã hội loài người, nó bao gồm ba quá trình: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người. Ba quá trình đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định. Vậy, sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá trình con người sáng tạo và sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra những vật phẩm thoả mãn nhu cầu nào đó cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người.

2. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của của xã hội loài người

Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người chinh phục, cải biến tự nhiên không phải  chỉ với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà còn với tư cách là những thành viên trong một cộng đồng xã hội. Sống trong một cộng đồng xã hội, con người tất yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là trong hoạt động lao động sản xuất. Con người và xã hội không thể tách rời tự nhiên, họ chỉ có thể tồn tại và phát triển dựa vào tự nhiên và trên cơ sở làm biến đổi tự nhiên. Không có tự nhiên và xã hội thì con người không thể tiến hành sản xuất được. Song, đến lượt mình, sản xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con người cải biến tự nhiên, biến đổi xã hội, trở thành nhân tố quyết định trực tiếp sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người. Trình độ sản xuất của con người càng cao (thì con người càng có điều kiện để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của mình và do vậy, cũng làm phong phú thêm đời sống xã hội, đời sống tinh thần của mình. Qua đó, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình, phát triển chính mình và thúc đẩy xã hội phát triển. 

3. Ý nghĩa phương pháp luận  

Trong  quá trình sản xuất vật chất con người luôn luôn tìm mọi cách để làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Chính sự phát triển không ngừng của sản xuất vật chất đã quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định sự phát triển xã hội. Do đó, khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội, chúng ta phải xuất phát từ cơ sở sâu xa của nó, đó là sản xuất vật chất.

Câu 21:  Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng quy luật này trong công cuộc đổi mới ở nước ta?

Trả lời

1.  Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất

a) Phương thức sản xuất là cách thức mà con người thực hiện trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội loài người. Trong quá trình sản xuất của mình, con người có những cách thức sản xuất ra những của cải vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau ấy đã tạo ra những đặc trưng riêng có cho mỗi kiểu xã hội nhất định (xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội xã hội chủ nghĩa…). Khi nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác đã bắt đầu từ chính quá trình sản xuất ấy qua những phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản xuất bao gồm hai mối quan hệ cơ bản: con người quan hệ với giới tự nhiên, gọi là lực lượng sản xuất và con người quan hệ với nhau, gọi là quan hệ sản xuất. Vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là gì?
b) Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Con người với trình độ khoa học kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo của mình sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến những dạng vật chất của tự nhiên tạo ra những sản phẩm vật chất phục vụ cho nhu cầu con người. Lực lượng sản xuất chính là sự thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Với cách hiểu như vậy, kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ bản sau:
+ Người lao động là con người biết sáng tạo, sử dụng công cụ lao động để sản xuất ra những vật phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người trong đời sống xã hội. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, con người với sức mạnh, kỹ năng, kỹ xảo của mình sử dụng những tư liệu sản xuất (trứơc hết là công cụ lao động) tác động vào đối tượng lao động  để sản  xuất ra của cải vật chất. Người lao động được xem là yếu quyết định của lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”(1). Trong quá trình sản xuất vật chất, con người tích luỹ kinh nghiệm, phát minh và sáng chế kỹ thuật, nâng cao kỹ năng lao động của mình, làm cho trí tuệ của con người ngày càng hoàn thiện hơn, do đó hàm lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm ngày càng cao. 
+ Tư liệu sản xuất là cái mà con người sử dụng nó trong quá trình lao động sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đây là yếu tố quan trọng không thể thiếu được của lực lượng sản xuất.
- Tư liệu lao động là cái do con người sáng tạo ra như phương tiện lao động (hệ thống giao thông vận tải, kho chứa, nhà xưởng, v.v.) và công cụ lao động. Công cụ lao động được xem là yếu tố động và cách mạng, luôn luôn được con người sáng tạo, cải tiến và phát triển trong quá trình sản xuất, nó là “thước đo” trình độ chinh chinh phục tự nhiên của loài người và là “tiêu chuẩn” để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau.
- Đối tượng lao động bao gồm những cái có sẵn trong tự nhiên mà người lao động đã tác động vào nó và cả những cái đã trải qua lao động sản xuất, được kết tinh dưới dạng sản phẩm. Sản xuất ngày càng phát triển, thì con người phải tìm kiếm, sáng tạo ra những đối tượng lao động mới, bởi những cái có sẵn trong tự nhiên ngày càng bị con người khai thác đến “cạn kiệt”.
Trong khi con người quan hệ với tự nhiên để tiến hành sản xuất thì con người cũng phải quan hệ với nhau và được khái quát trong phạm trù quan hệ sản xuất. 
Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ, lao động trí tuệ của con người đóng vai trò chủ yếu trong lực lượng sản xuất. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất vật chất và là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Dự báo hơn 100 năm trước đây của C.Mác về vai trò động lực của khoa học đã và đang trở thành hiện thực. Trong thời đại ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nhữmg mguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội. Nó vừa là ngành sản xuất riêng, vừa  thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữa hai quá trình nghiên cứu khoa học và sản xuất đã đan xen với nhau, xâm nhập lẫn nhau, khoảng cách thời gian từ nghiên cứu khoa học đến sản xuất được rút ngắn lại, đặc biệt khoa học đã mang lại hiệu quả kinh tế vô cùng to lớn. Những phát minh khoa học trở thành xuất phát điểm cho sự ra đời của những ngành sản xuất mới, những thiết bị máy móc, công nghệ, nguyên, nhiên, vật liệu và năng lượng mới, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Chính vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng; khoa học trong thời đại ngày nay đã “trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, tạo thành cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
c) Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, nó bao gồm những mối quan hệ kinh tế cơ bản như: quan hệ đối với sở hửu tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. 
Trong ba mối quan hệ kinh tế cơ bản ấy thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ khác. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã từng tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân (tư hữu) và sở hữu công cộng (công hữu). Quan hệ sản xuất là do con người ta quy định với nhau nhưng nội dung của nó lại mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một ai hay một tổ chức nào. Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư bản, C.Mác đã khẳng định: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”(1). Quan hệ sản xuất được xem là hình thức xã hội của một quá trình sản xuất. Ba mối quan hệ cơ bản của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống tương đối ổn định so với sự vận động và phát triển liên tục của lực lượng sản xuất. 
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hê sản xuất là hai mặt thống nhất trong phương thức sản xuất, sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện quy luật chung chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người. 

2. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Biện chứng vốn có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một tất yếu khách quan. Sản xuất vật chất của xã hội luôn luôn có khuynh hướng phát triển. Sự phát triển đó, xét cho đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện qua các trình độ khác nhau. Nói đến trình độ của lực lượng sản xuất là nói đến trình độ của công cụ lao động (thủ công, cơ khí, công nghiệp hiện đại…), trình độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ ứng dụng khoa học-kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội…). Chính trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định tính chất của lực lượng sản xuất và được biểu hiện một cách rõ nét nhất ở sự phân công lao động xã hội. 
Khi trình độ của lực lượng sản xuất chủ yếu là thủ công thì lao động của con người còn mang tính cá nhân riêng lẻ, một người có thể sử dụng được rất nhiều công cụ lao động khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Với trình độ của lực lượng sản xuất như vậy thì tính chất của lực lượng sản xuất chủ yếu là mang tính cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, máy móc công nghiệp thì một người không thể đảm nhận được tất cả các khâu của quá trình sản xuất, mà mỗi người chỉ đảm trách được một khâu nào đó trong dây chuyền sản xuất. Quá trình sản xuất ấy đòi hỏi phải có nhiều người tham gia, sản phẩm làm ra là sự kết tinh lao động của nhiều người. Với trình độ của lực lượng sản xuất như vậy thì tính chất của lực lượng sản xuất là mang tính xã hội.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất qua các trình độ khác nhau đã quy định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ấy. 
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động lại là yếu tố động, nó luôn luôn được con người cải tiến và phát triển, đã dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có và khi ấy xuất hiện sự đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế vào đó quan hệ sản xuất mới. Như vậy, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự phù hợp trong mâu thuẫn; mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội dung thường xuyên biến đổi (động) với quan hệ sản xuất là hình thức xã hội lại tương đối ổn định (tĩnh). 
Thông qua sự tác động nội tại của phương thức sản xuất đã dẫn đến quan hệ sản xuất cũ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới, cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, cao hơn ra đời. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã kết luận: “Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những  quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay, đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng máy hơi nước, đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”(1). Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh kết luận ấy. 
 Khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, công cụ lao động còn thô sơ, chủ yếu là đồ đá, cung tên, với người lao động chỉ biết săn bắt, lượm hái thì con người muốn duy trì sự sống, chống lại những tai hoạ của tự nhiên họ phải lao động sản xuất theo cộng đồng, do đó quan hệ sản xuất lúc này phải là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công xã nguyên thủy. Song, loài người, vì sự tồn tại và phát triển của mình họ phải tìm cách cải tiến công cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Sự ra đời của công cụ bằng kim loại, thủ công với con người lao động đã biết trồng trọt và chăn nuôi, sản xuât theo từng gia đình có năng suất lao động cao hơn, loài người bắt dầu sản xuất ra những sản phẩm thặng dư, do đó quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công xã nguyên thủy tan rã và quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu chủ nô ra đời. Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô bước đầu phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất lúc bấy giờ đã làm cho sản xuất phát triển. Nhưng, loài người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất; đất đai ngày càng được khai phá nhiều hơn, cùng với đó là sự xuất hiện của những ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp mới, với sự giao lưu buôn bán các sản phẩm làm ra phát triển hơn. Do đó, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô không còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nữa, lúc này xuất hiện sự đòi hỏi phải thay thế  quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu địa chủ. Nhưng, lực lượng sản xuất vẫn không dừng lại ở đó. Loài người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Khi công cụ lao động bằng máy móc công nghiệp ra đời cùng với người lao động là những người công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, phân công lao động đã mang tính xã hội. Do đó, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu địa chủ cần phải được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Chính sự ra đời của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản phát triển đạt tới trình độ chuyên môn hoá sâu và xã hội hoá cao, đến lượt nó lại mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Để giải quyết mâu thuẫn này, tất yếu phải xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và xác lập quan hệ sản xuất mới. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã xác định quan hệ sản xuất mới ấy phải dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và nó sẽ được hình thành từng bước theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất qua các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau của lịch sử. 
Trong sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, một mặt quan hệ sản xuất luôn luôn do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định, nhưng mặt khác, bản thân quan hệ sản xuất cũng  có tính độc lập tương đối so với lực lượng sản xuất. Điều này được thể hiện trong sự tác động trở lại của nó đến lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, quy định xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích; từ đó hình thành những khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động biện chứng này đã diễn ra như là một quy lật chung chi phối toàn bộ sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Ngày nay, sở dĩ chủ nghĩa tư bản vẫn còn giữ được vị trí của nó, bởi lẽ, giai cấp tư sản có thể đã nhận thức được tính quy luật này mà điều chỉnh một bộ phận của quan hệ sản xuất như, thay đổi tỷ trọng của những hình thức sở hữu trong hệ thống kinh tế (ví dụ: tăng hay giảm thành phần sở hữu nhà nước, lập ra sở hữu hỗn hợp Nhà nước - độc quyền, cổ phần hoá các doanh  nghiệp, quốc tế hoá  hơn nữa sản xuất và tư bản, cải tổ lại cấu trúc của nền kinh tế và cơ chế kinh doanh)… Do đó, chủ nghĩa tư bản vẫn còn tạo ra được những khả năng nhất định để phát triển kinh tế, kể cả việc họ vận dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

3. Sự vận dụng quy luật này trong công cuộc đổi mới ở nước ta

Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tính quy luật này cũng tác động mạnh mẽ vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Còn quan hệ sản xuất lạc hậu hơn, hoặc “tiên tiến” (theo ý muốn chủ quan của con người) hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trườmg có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (1).   
Đường lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa không đồng đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây dựng một quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Như thế, sẽ đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa (không phù hợp) so với lực lượng sản xuất vốn có của chúng ta. Vì vậy, thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong công cuộc đổi mới đất nước là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động, kích thích lợi ích… đối với các chủ thể lao động trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”(2). 
Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất thì điều cần thiết và có tính quyết định là chúng ta phải phát triển lực lượng sản xuất. Muốn phát triển lực lượng sản xuất thì không có con đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã khẳng định: “về thực chất, công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” (1).
Quan niệm ấy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy vấn đề then chốt của quá trình này ở một nước nông nghiệp lạc hậu là cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Song, đó không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp với những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng để phát triển chiều rộng, với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu để phát triển chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học, công nghệ trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, có thể nói, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và phức tạp, được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và luôn gắn bó với quá trình hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ấy phải thật sự lấy phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền tảng và động lực. Phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. 

Câu 22:  Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Sự vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta?
Trong quá trình nghiên cứu xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ nghiên cứu xã hội thông qua mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà còn nghiên cứu cả những quan hệ khác. Trong đó mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng được xem là một quy luật chung chi phối sự vận động và phát triển của xã hội loài người.

Trả lời

1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định.

Trong một xã hội, có thể tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác nhau, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của một xã hội tương lai. Cơ sở hạ tầng chính là sự tổng hợp của các quan hệ sản xuất ấy, trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác. Do đó, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, bên cạnh những quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống thì quan hệ sản xuất thống trị vẫn là đặc trưng cơ bản của xã hội ấy.
b) Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thể chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Khi xã hội đã phân chia giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu tranh về chính trị - tư tưởng của các giai cấp đối kháng, trong đó nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, nó là sự biểu hiện rõ nét nhất cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, đây là hai mặt của đời sống xã hội và được hình thành một cách khách quan, gắn liền với những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Không như các quan niệm duy tâm giải thích sự vận động của các quan hệ kinh tế bằng những nguyên nhân thuộc về ý thức, tư tưởng hay thuộc về vai trò của nhà nước và pháp quyền, trong Lời tựa tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác đã khẳng định: “không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất”(1). 
•   Trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định đó được thể hiện:
- Tính chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quy định. Các mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng, nó sẽ quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quy định.
- Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. C.Mác viết:  “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”(2).
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng không chỉ biểu hiện trong giai đoạn chuyển đổi từ hình thái khinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Khi có sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng thì cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng.
• Trong quan hệ bịên chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định như đã phân tích ở trên. Song, đến lượt nó, các yếu tố cấu thành của kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động, phát triển của nó và tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau, ví dụ: trong xã hội có giai cấp thì nhà nước, pháp quyền là yếu tố tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng. Còn các yếu tố khác như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v. cũng đều có sự tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước và pháp quyền chi phối. Song, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng luôn diễn ra theo hai khuynh hướng khác nhau. Nếu kiến trúc thựơng tầng phản ánh đúng, phù hợp với cơ sở hạ tầng, với các quy luật kinh tế thì nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn; ngược lại, nếu cơ sở hạ tầng phản ánh sai, không phù hợp với các quy luật kinh tế thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
Tuy kiến trúc thượng tầng có sự tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng xét cho đến cùng nhân tố kinh tế vẫn đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.

3. Sự vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta

Ở nước ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không chỉ quán triệt và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn phải quán triệt và vận dụng một cách khoa học và sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết cấu kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn như vậy là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất của chúng còn thấp và chưa đồng đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất đan xen của kết cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa đảng và đa nguyên về chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng: đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc… nhằm tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế phải đổi mới chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là hai quá trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính trị để đổi kinh tế một cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.


Kết thúc seri 22 câu hỏi triết học Chủ nghĩa Mác  Lê Nin.
 


Mã QR group otsv
Group tài liệu và đề thi của đội ngũ OTSV theo từng trường. Quét mã hoặc bấm tại đây